Tinh thần Chủ nghĩa Tư bản Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản

Max Weber năm 1894

Theo Alain Bihr, "chủ nghĩa tư bản" đối với Max Weber trước hết không phải là, hay không chỉ là, một hệ thống kinh tế, ít ra vào lúc ban đầu của quá trình nhận diện khái niệm này, như các nhà kinh tế học thường quan niệm. Song, khái niệm này trước hết nói đến một mô hình ứng xử kinh tế đặc thù; mô hình ứng xử này một khi đã trở nên phổ biến và ổn định thì lẽ tất nhiên sẽ dẫn đến chỗ hình thành một hệ thống kinh tế, nhưng theo Weber, người ta chỉ có thể hiểu được hệ thống này nếu qui chiếu nó về các hành vi và hoạt động của các cá nhân vốn tạo nên động lực thúc đẩy sự vận hành của cả hệ thống.[13] Ở đây, Weber đã vô hình trung nhấn mạnh tới những điều kiện chủ quan cần thiết cho sự hình thành "tinh thần" của chủ nghĩa tư bản và từ đó thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.[14]

Trước tiên và quan trọng hơn hết, theo Weber, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản là đầu tư làm kinh tế trong khuôn khổ của một nền đạo đức cao. Một cá nhân tham gia vào nền kinh tế tư bản không chỉ vì muốn phiêu lưu để kiếm sống, mà còn là một cách kiểm tra nguồn lực nội tại, từ đó khẳng định giá trị đạo đức của mình. Weber nhận xét rằng, không giống như nhiều người thường nghĩ, chủ nghĩa tư bản không phải là sản phẩm của lòng hám lợi hoặc sự phục tùng mù quáng ma lực đồng tiền.

Max Weber đặt ra câu hỏi: Tại sao và làm thế nào mà cuối cùng chủ nghĩa tư bản đã được xác lập không chỉ như một mô hình ứng xử kinh tế thống trị, thậm chí duy nhất, mà nhìn chung còn là một mô hình văn hóa ghi dấu ấn lên trên toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, tinh thần cũng như vật chất ở châu Âu cận đại và đương đại?[15]

Trong phần "Vorbemerkung" (Lời nhận xét mở đầu) mà ông viết vào cuối năm 1919, Max Weber nhấn mạnh rằng, trái ngược với quan niệm ngộ nhận thông thường, chủ nghĩa tư bản hoàn toàn không phải là hệ quả của lòng hám lợi hay máu tham tiền vốn là những hiện tượng mà người ta có thể bắt gặp ở bất cứ xã hội nào vào bất cứ thời đại nào. Ông viết: "‘Ham muốn chiếm hữu’, ham muốn ‘chạy theo doanh lợi’, chạy theo tiền bạc, càng nhiều tiền càng tốt, tự chúng không có liên quan gì tới chủ nghĩa tư bản. Ham muốn ấy đã từng tồn tại và đang tồn tại nơi những người hầu bàn, người bác sĩ, người đánh xe ngựa, người nghệ sĩ, người đàn bà lẳng lơ, người công chức tham ô nhũng lạm, người lính, kẻ trộm cắp, kẻ viễn chinh, kẻ cờ bạc, kẻ ăn mày... Lòng hám lợi vô độ không hề giống chút nào với chủ nghĩa tư bản, lại càng không mảy may liên quan gì tới ‘tinh thần’ của nó.[16] Ngược lại, chủ nghĩa tư bản, theo Weber, "chính là sự chế ngự [Bändigung], hay chí ít là sự điều tiết bằng lý tính, cái bản năng phi lý tính ấy".[16]

Weber hình dung chủ nghĩa tư bản như là sự hiện diện và sự hoạt động của những doanh nghiệp mang mục đích làm ra lợi nhuận tối đa với lối tổ chức thuần lý tính trong lao động và sản xuất.[9] "Thật vậy, chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với việc đi tìm lợi nhuận trong những doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa liên tục và thuần lý: đi tìm một lợi nhuận luôn luôn "tái sinh", đi tìm "tính sinh lợi". Vì nó buộc phải như thế. Khi mà toàn bộ nền kinh tế nằm trong trật tự tư bản chủ nghĩa, thì bất cứ một doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa riêng lẻ nào không tự định hướng mình theo mục tiêu đạt được tính sinh lợi thì chỉ có nước tiêu vong.[16]

Căn cứ để Weber phân biệt các loại hình của tinh thần chủ nghĩa tư bản là cách thức lao động, cách thức kiếm tiền chứ không phải ở động cơ kiếm tiền. Sự kiếm tiền có đạo đức, có kỷ luật, có ý thức tôn trọng pháp luật, có tính toán cặn kẽ với cung cách làm việc chăm chỉ, cần cù mới là biểu hiện của tinh thần chủ nghĩa tư bản hiện đại, hoặc theo cách gọi của Weber, là tinh thần chủ nghĩa tư bản thuần lý. Sự kiếm tiền cách tàn bạo, vô đạo đức không phải là tinh thần của chủ nghĩa tư bản, mà là tinh thần của thời kỳ tiền tư bản chủ nghĩa.[17]

Theo Weber, chủ nghĩa tư bản không ra đời từ loại lao động rẻ tiền, hay bằng cách trả công rẻ để thu nhiều lợi nhuận như nhiều người thường nghĩ. Ngược lại, chủ nghĩa tư bản hiện đại hình thành bởi một loại lao động được coi là mục đích của cuộc sống, một sự lao động "tiền định". "Lao động phải trở thành mục đích tự thân tuyệt đối, một thiên hướng nghề nghiệp."[18]

Kinh tế tư bản chủ nghĩa dựa trên quá trình lao động với sự tính toán kỹ lưỡng, được định hướng bởi tầm nhìn xa và sự thận trọng đối với các thành công kinh tế. Điều này trái ngược với cách làm kiểu nông dân "tay làm hàm nhai", và đối lập với chủ nghĩa truyền thống đặc quyền đặc lợi của các chủ xưởng, cũng như hoàn toàn khác biệt với "chủ nghĩa tư bản phiêu lưu" định hướng vào việc khai thác các cơ hội chính trị và đầu cơ phi lý.[19]

Bên cạnh việc nhìn nhận vai trò quan trọng của những yếu tố như thị trường và kỹ thuật, Max Weber còn đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò cũng như quá trình lý tính hóa của luật pháp và của bộ máy hành chính [Verwaltung].[9] Ông viết, "Cấu trúc thuần lý của luật pháp và của bộ máy hành chính lẽ tất nhiên là điều quan trọng. Thật vậy, chủ nghĩa tư bản doanh nghiệp thuần lý hiện đại đòi hỏi phải có sự tiên liệu có tính toán, không chỉ về mặt kỹ thuật sản xuất, mà cả về mặt luật pháp, cũng như một bộ máy hành chính với những quy tắc hình thức rõ ràng. Không có những yếu tố này, thì chắc chắn sẽ chỉ có thể nảy sinh thứ chủ nghĩa tư bản phiêu lưu và thương mại đầu cơ, cũng như đủ mọi loại chủ nghĩa tư bản chịu sự chi phối của chính trị, chứ không thể nảy sinh loại hình doanh nghiệp thuần lý được điều khiển bởi sự chủ động của cá nhân với một số vốn thường trực và sự tiên liệu vững chắc.[20]

Theo giải thích của nhà xã hội học người Pháp Raymond Aron (19051983), ở đây Weber coi đặc trưng cấu thành then chốt của chủ nghĩa tư bản không phải là đi tìm "lợi nhuận tối đa", mà là tích lũy bất tận. Từ xưa tới nay, thương nhân nào cũng muốn kiếm lời tối đa qua mỗi thương vụ. Nhưng đối với doanh nhân tư bản chủ nghĩa thì nét đặc trưng không nằm ở chỗ ông ta không hạn chế ham muốn doanh lợi, mà ở chỗ ông ta luôn nung nấu ham muốn tích lũy không ngừng ngày càng nhiều, do đó ý chí sản xuất của ông ta cũng trở nên không giới hạn. Chính là sự kết nối giữa ham muốn lợi nhuận với tính kỷ luật thuần lý và lối tổ chức thuần lý mới tạo nét đặc trưng của chủ nghĩa tư bản Tây phương.[21] Cũng theo cách luận giải của Raymond Aron, khi so sánh các dữ kiện lịch sử, Weber đặt vấn đề: tại sao ngay tại những trung tâm phát triển tư bản chủ nghĩa như như Firenze (Ý) vào thế kỷ 1415 lại không thể xuất hiện quan niệm kiếm tiền thông qua nghề nghiệp như một mục đích tự thân, hay như một "chức phận", một "thiên chức", vốn là đặc trưng nhất của "tinh thần" chủ nghĩa tư bản, mà điều này lại xảy ra ở những khu rừng Pennsylvania (Mỹ) vào thế kỷ 18, nơi mà các hoạt động kinh doanh lúc ấy vẫn còn hết sức lạc hậu? Từ đó Weber đưa ra nhận định, "ở đây mà nói đến sự phản ánh các điều kiện vật chất lên trên thượng tầng kiến trúc tư tưởng là điều hoàn toàn vô nghĩa.[22] Weber cho rằng chính bối cảnh tư tưởng giáo thuyết Calvin "đã dẫn tới chỗ coi loại hoạt động xem ra chỉ nhằm tới lợi nhuận này như là một thiên chức mà đối với nó, cá nhân cảm thấy mình có bổn phận luân lý", "đã tạo ra nền tảng và sự biện hộ về đạo đức cho lối ứng xử kiểu mới của nhà kinh doanh,[22] và chính nhờ đó mà nó góp phần tạo ra những động lực tinh thần và những lối ứng xử thích hợp và cần thiết cho tiến trình phát triển chủ nghĩa tư bản.

Về ảnh hưởng của tinh thần này, như Durkheim nhận xét, doanh nhân thực hiện công việc của mình với sự nghiêm túc, xem đó là trọng tâm của cuộc sống, một cách thể hiện nhân phẩm, và không có gì xấu xa, bất chính trong đó. Cung cách tìm kiếm lợi tức như thế là khác xa với lòng hám lợi thấp hèn. Hơn nữa, họ kiếm tiền không phải để tiêu xài cho cuộc sống xa hoa, hoặc để thỏa mãn tham dục xác thịt, nhưng để tiết kiệm và tái đầu tư. Do đó, không thể đánh đồng nếp sống tiết kiệm này với tính keo kiệt, vì nguồn tài chính tích lũy sẽ được dùng cho việc đầu tư vào các doanh nghiệp thích hợp. Như vậy, trong tinh thần chủ nghĩa tư bản có mối dây ràng buộc chặt chẽ giữa sự sở hữu tiền bạc với nghĩa vụ đạo đức.

Nhà xã hội học người Mỹ Robert Nisbert (1913-1996) cho rằng Weber không tìm cách giải thích chủ nghĩa tư bản xét một cách tổng thể bằng giáo thuyết Calvin, mà thực ra ông chỉ tìm hiểu cái "tâm thế" của nền đạo đức Calvin vốn cho rằng lao động, của cải và lợi nhuận không những được chấp nhận và đề cao, mà thậm chí còn trở thành sức mạnh thúc bách về mặt đạo đức và thống trị về mặt luân lý[23] - điều mà ông cho là có một sự "tương hợp chọn lọc" với tinh thần chủ nghĩa tư bản, hay với những yêu cầu về mặt phẩm chất và tính cách của doanh nhân tư bản chủ nghĩa. Khái niệm "quan hệ tương hợp chọn lọc" là một khái niệm độc đáo mà Weber sử dụng khi ông nhận định về mối quan hệ tương tác giữa nền đạo đức Kháng Cách với tinh thần chủ nghĩa tư bản.[9]